"Chóng mặt" với lãi suất
Năm  2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã kiểm soát được tổng phương tiện  thanh toán tăng khoảng 10%, tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng khoảng 12%;  trong đó, ước tính đến thời điểm cuối năm, tín dụng VND tăng 10,2%; tín  dụng ngoại tệ tăng 18,7%. Tín dụng đối với lĩnh vực sản xuất tăng  15,7%. Tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất giảm 20%.
Để  đạt được các con số trên, các mức lãi suất điều hành đã được điều chỉnh  hợp lý, phản ánh vai trò người cho vay cuối cùng của NHNN. Từ tháng 9,  lãi suất tái cấp vốn tăng lên 15%/năm và lãi suất cho vay qua đêm trong  thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng lên 16%/năm. Mặc dù trong tháng  10, lãi suất thị trường liên ngân hàng có áp lực tăng, nhưng tính đến  ngày 14/12, lãi suất kỳ hạn qua đêm ở mức 14 - 14,5%/năm; 1 tuần ở mức  15 - 16%/năm; 2 tuần ở mức 16 - 17%/năm; 1 tháng ở mức 18 - 19%/năm.
Trong  8 tháng đầu năm, lãi suất huy động và cho vay VND luôn ở mức cao, nhiều  tổ chức tín dụng (TCTD) có lãi suất huy động thực tế trên 14%/năm thông  qua việc "lách" các quy định của NHNN. Chi phí vốn cao đã đẩy lãi suất  cho vay của các TCTD đối với các DN có thời điểm lên tới 28%/năm, khiến  các DN đình trệ sản xuất.
Theo thống kê, có tới gần 50.000 DN đã  phá sản, ngưng hoạt động hay sáp nhập trong năm 2011. Với việc tăng  cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm và các  giải pháp khơi thông vốn, phần lớn NHTM đã thực hiện nghiêm túc trần lãi  suất huy động.
Tuy nhiên, lãi suất cho vay của nhiều  TCTD vẫn ở mức cao, ngoại trừ một số chương trình cho vay ưu đãi đối với  một ngành nghề và tại một số NHTM quốc doanh có tính thanh khoản tốt,  đóng vai trò đầu tàu trong việc giảm lãi suất cho vay. 
Ở  thời điểm cuối năm, các DN vừa và nhỏ vẫn phải chịu mức lãi suất trung  bình 20 - 22%/năm. Nhiều ngân hàng đang trở lại cuộc chạy đua lãi suất  và trần lãi suất huy động lại tiếp tục vượt 14%/năm, khiến nhiều người  nghi ngại, chưa biết rồi đây các ngân hàng sẽ hạ lãi suất cho vay thế  nào.
 
"Sốc" thị trường ngoại hối
Ngày  11/2/2011, NHNN tăng tỷ giá USD/VND từ 18.932 lên 20.693 và thu hẹp  biên độ giao dịch từ ± 3% xuống ±1%. Điều này có nghĩa, đồng Việt Nam  giảm giá 9,3% so với USD. Sau đó, tỷ giá ngoài thị trường tự do đã có  biến động mạnh, một số thời điểm tỷ giá lên mức 22.000 VND/USD.
Tuy  nhiên, sau cú "sốc" này, áp lực tỷ giá USD/VND đã giảm hẳn, thị trường  ngoại hối tỏ ra ổn định và không gây ra những biến động lớn. Nhiều thời  điểm, tỷ giá thị trường tự do giảm thấp hơn so với thị trường chính  thức, tỷ giá liên ngân hàng cũng liên tục giảm.
Sự ổn  định trên là thành quả của việc điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ,  kết hợp với thu hẹp đối tượng được vay ngoại tệ trong nước, tăng tỷ lệ  dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa  bằng USD của tổ chức và cá nhân tại TCTD đã góp phần làm giảm tình  trạng đô - la hóa, tăng niềm tin vào đồng tiền Việt Nam. Đặc biệt, NHNN  cho biết, từ tháng 4 đến giữa tháng 8/2011 đã mua được khối lượng ngoại  tệ khá lớn để bổ sung cho dự trữ ngoại hối.
Tuy nhiên,  với mức tăng trưởng tín dụng ngoại tệ tính đến cuối năm 2011 đạt xấp xỉ  19% và tiền gửi tăng khoảng 8% so với đầu năm, cho thấy tình trạng đô -  la hóa vẫn còn. Đặc biệt, việc NHNN "neo một cách cơ học" tỷ giá trong  gần hai tháng rồi chỉ trong nửa đầu tháng 10/2011 đột ngột liên tiếp  tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng được các chuyên gia kinh tế nhìn  nhận là tỷ giá sẽ gặp phải những áp lực lớn đầu năm 2012. 
Nguyên  nhân bởi hàng nhập khẩu trước Tết vẫn tiếp tục tăng, nhiều món nợ bằng  ngoại tệ của khách hàng với ngân hàng và của ngân hàng với các chủ nợ  nước ngoài đã được điều đình để trì hoãn đến đầu năm 2012. Tỷ giá khó có  thể giữ vững ở mức hiện nay nếu chỉ số lạm phát vẫn cao và niềm tin của  dân chúng vào đồng tiền Việt Nam chưa thực sự được phục hồi.
Bất ổn thị trường vàng
Trong  năm 2011, giá vàng đã tăng khoảng 25%, mức tăng cao nhất đạt 40% khi  giá vàng đạt đỉnh 49,2 triệu đồng/lượng vào ngày 23/8, khoảng cách giữa  giá vàng trong nước với thế giới xấp xỉ 2 triệu đồng/lượng và được gọi  là "ngày thứ Hai điên rồ". Ngay sau đó, NHNN cho nhập khẩu 5 tấn vàng  nhưng không làm giá vàng giảm mạnh, thậm chí đến cuối tháng 9, giá vàng  trong nước vẫn cao hơn giá vàng thế giới gần 4 triệu đồng/lượng.
Giá  vàng tăng mạnh tiếp tục đẩy nhu cầu mua lên cao, phần nào tạo áp lực  khiến NHNN phải cho phép SJC và 5 NHTM là Sacombank, ACB, Techcombank,  DongABank và Eximbank được bán vàng bình ổn, với lượng vàng bán ra đạt  trên 10 tấn trong vòng 2 tuần. Tuy nhiên, những ngày cuối năm, một vài  ngân hàng bán vàng bình ổn đã từ chối bán vàng cho dân với lý do hết  vàng.
Dự thảo quản lý thị trường vàng của NHNN đã được  công bố nhằm lấy ý kiến rộng rãi của các thành phần kinh tế, trong đó  quy định mới và quan trọng là sẽ siết lại việc sản xuất vàng miếng, việc  dập vàng miếng tập trung về một đầu mối SJC và NHNN chủ trương dùng SJC  làm thương hiệu vàng miếng quốc gia. Tuy nhiên, việc sử dụng một thương  hiệu vàng miếng duy nhất là SJC đã khiến cho vàng miếng của thương hiệu  này bị khan hiếm. Người dân thay vì mua các thương hiệu vàng miếng khác  nhau để tích trữ thì giờ đây đổ dồn sang mua vàng thương hiệu SJC...
Tuần  cuối cùng của năm 2011, giá vàng trong nước vẫn cao hơn giá vàng thế  giới trên 2 triệu đồng/lượng. Việc ban hành Nghị định quản lý thị trường  vàng đang được công chúng chờ đợi, để sớm có những giải pháp căn cơ  hơn, giúp thị trường vàng đi vào ổn định.
"Bất ngờ" tái cấu trúc ngân hàng
Những  tháng cuối năm 2011 được nhìn nhận là thời điểm cần thiết phải tiến  hành tái cấu trúc hệ thống ngân hàng bởi tính thanh khoản của một số  ngân hàng nhỏ có lúc đã chạm đáy nguy hiểm, đẩy lãi suất cho vay trên  thị trường liên ngân hàng lên đến 30 - 40%/năm (bao gồm cả lãi phạt vì  quá hạn). Nhiều ngân hàng không còn cho vay tín chấp mà đòi hỏi phải có  thế chấp, một sự việc không có tiền lệ và cho thấy lòng tin giữa các  ngân hàng với nhau xuống tới mức báo động.
Tuy nhiên,  điều "bất ngờ" thể hiện ở chỗ tiến trình tái cấu trúc đã được thực thi  một cách mau lẹ. Đầu tháng 12/2011, NHNN đã hỗ trợ việc hợp nhất ba NHTM  là Ficombank, TinNghiaBank và SCB. Một số ngân hàng cũng đang được đưa  vào tầm ngắm đặc biệt của NHNN và thị trường trong quá trình tái cấu  trúc.
Nhưng điều quan trọng nhất mà thị trường chờ đợi ở  NHNN là quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng được tiến hành một  cách minh bạch, công khai. Bởi việc hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng vốn  là điều không dễ ở thị trường Việt Nam. 
Hơn thế, việc gộp  các ngân hàng bé và yếu lại với nhau sẽ khó cho ra kết quả một ngân hàng  lớn và khỏe. Đó là chưa kể đến những xung đột quyền lợi, tranh giành  quyền lực làm ngân hàng suy yếu hơn, không tạo niềm tin cho người dân  gửi tiền vào ngân hàng. Chắc chắn, câu chuyện tái cấu trúc hệ thống ngân  hàng không phải là điều dễ dàng và NHNN cần hết sức thận trọng.
Rõ  ràng, chính sách tiền tệ đã được điều hành một cách linh hoạt và hiệu  quả trong việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng và cung tiền, phần nào tạo  sự ổn định trên thị trường ngoại hối sau đợt phá giá tiền đồng đầu năm  2011. Tuy nhiên, chỉ số lạm phát cùng mặt bằng lãi suất ở mức cao nhất  trong khu vực đang chứng tỏ các nhà quản lý chưa hoàn toàn làm chủ được  tình hình thị trường tiền tệ... 
Những thành quả và hạn chế  trong năm 2011 sẽ là tiền đề cho những chính sách và kế hoạch hành động  của các nhà quản lý trong năm 2012, nhất là khi ngành ngân hàng nói  riêng và nền kinh tế nói chung đang bước vào công cuộc tái cấu trúc.
Theo ĐTCK